Bình Định có nghĩa là gì? Tên gọi Bình Định có từ khi nào | Atabook.com
Cập nhật lần cuối vào ngày 25/09/2023

Bình Định có nghĩa là gì? 

Quang Nguyễn
Quang Nguyễn

Tên gọi Bình Định do vua Gia Long đặt vào năm 1799, có nghĩa là "đã dẹp yên vùng đất của loạn đảng" (ám chỉ nhà Tây Sơn).

 
Bình Định có nghĩa là gì
Bình Định được vua Gia Long đặt, có nghĩa là đã dẹp yên vùng đất của loạn đảng. Ảnh: quyhoachvietnam.com 

Bình Định vốn là đất cũ của Chiêm Thành. Trong Nước non Bình Định (Nam Cường, Sài Gòn, 1967), Quách Tấn dẫn theo Đồ Bàn Ký của Hoàng giáp Nguyễn Văn Hiển (triều Minh Mạng) cho rằng sau khi bị vua Lê Đại Hành chiếm lấy thành Địa Rí [tức Indrapura] vào năm 982, vua Chiêm Thành khi đó là Xá Lợi Đà Ngô Nhật Hoan [theo chúng tôi thì đó là vua Jaya Indravarman IV, âm Hán Việt là Nhân Đà La Bạt Ma] chạy vào đây đóng đô mới đặt tên là Đồ Bàn. [1] 

Trong Dân tộc Chàm lược sử (Sài Gòn, 1965), hai tác giả Dohamide và Dorohiem nói cụ thể hơn về thành Đồ Bàn như sau:

"Thành Đồ Bàn với tên Chàm là Vijaya, tục gọi là "Thành Cũ" nằm trên gò đá ong của 2 thôn Bắc Thuận và Nam Tân, quận An Nhơn, thuộc địa phận tỉnh Bình Định, nằm giữa một cánh đồng phì nhiêu, hình cái thoi, mỗi đường nối góc chừng 30 cây số, Bắc Tây Nam đều có núi án ngữ, chỉ phía Đông là trực tiếp với vùng nước mặn, thông ra biển bằng cửa Thị Nại. Nhà cổ học H. Parmentier cho biết, thành còn di tích xây hình chữ nhựt, Đông Tây 1.100 thước, Nam Bắc 1.400 thước, với trung tâm điểm là Tháp Cánh Tiên (Tour de Cuivre), tức Tháp Đồng". [2] 


Tên gọi Bình Định có từ khi nào?
Đại Nam thực lục  大南實錄 của Quốc Sử Quán triều Nguyễn cho biết thời điểm xuất hiện tên gọi Bình Định là vào năm 1799 (Kỷ Mùi), tức năm thứ 4 Gia Khánh đời Thanh.

Theo đó, 
vào tháng 5 năm 1799, quân Nguyễn Ánh tập kết và tiến sát thành Quy Nhơn, đến tháng 6 (tức một tháng sau) thì đã lấy được thành. Thái phủ của Tây Sơn là Lê Văn Ứng đã thua, trong thành quân ít, lương cạn. Đại Tổng quản Lê Văn Thanh, Thượng thư binh bộ Nguyễn Đại Phác và Thiếu uý Trương Tiến Thuý của nhà Tây Sơn dâng biểu xin hàng.
 
"Vua sai Tham tri Lại bộ Nguyễn Bảo Tiến và Tham mưu Trần Quang Thái đưa chỉ dụ rằng: “Bọn ngươi đã biết quy thuận, ta cũng lấy lòng thành tiếp đãi, ngày trước là cừu địch, ngày nay là vua tôi, đều không nên ngờ sợ gì nữa”. Bèn cho xa giá vào thành. Bọn Thành cùng tướng tốt 1 vạn 3 trăm người đều tự trói cổ lạy phục. Vua sai tuyên chỉ an ủi, và cho 5.000 quan tiền để chia nhau. Đổi tên thành làm thành Bình Định". [3]
 

Tên gọi Bình Định có ý nghĩa gì?


Như đã trích dẫn từ Đại Nam thực lục ở trên, sau khi hạ được thành Quy Nhơn vào tháng 6 năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Ánh đã cho đổi tên là Bình Định. Trong tiếng Hán, Bình Định 平定 có nghĩa là dẹp yên, bình ổn, chấm dứt động loạn

Nên nhớ rằng, vùng đất này vốn là đất thang mộc của nhà Tây Sơn [4] tức là nơi phát tích của triều đại nhà Tây Sơn. Việc Nguyễn Ánh đặt tên vùng đất này là Bình Định, tức là ông cho là mình đã vào tận đất phát tích của nhà Tây Sơn, là bình định được loạn đảng “ngụy Tây” (theo cách nói của các vua triều Nguyễn trước đây). Vì thế, tên gọi Bình Định có thể được ra đời với ý nghĩa là "đã dẹp yên vùng đất của loạn đảng". 



Danh xưng tỉnh Bình Định chính thức có từ năm nào?
Kể từ năm Kỷ Mùi (1799), sau vài lần thay đổi, đặt tên, chia tách thì đến năm Nhâm Tuất (1802) lúc vua Gia Long lên ngôi, vùng đất này được gọi là dinh (doanh) Bình Định. 

Đến năm Bính Dần (1806), dinh Bình Định được đổi thành trấn Bình Định. Khâm định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, quyển 36, mặt khắc 16 ghi rõ về việc này như sau:

 
Gia Long năm mới lên ngôi gọi là doanh Bình Định có 1 phủ 3 huyện, là phủ Quy Nhơn lĩnh 3 huyện Phù Ly, Tuy Viễn, Bồng Sơn. Năm thứ 5 (1806), đổi doanh làm trấn”. [5]

Năm 1816, vua Gia Long đặt Tri phủ Quy Nhơn trông coi ba huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn.

Năm 1831, vua Minh Mạng cho đổi phủ Quy Nhơn làm phủ Hoài Nhơn.

Năm 1832, phủ Hoài Nhơn được nâng cấp, đổi tên thành tỉnh Bình Định và đặt chức Tổng đốc Bình Phú kiêm quản hai tỉnh Bình Định và Phú Yên.

Như vậy danh xưng tỉnh Bình Định chính thức xuất hiện từ năm 1832.

Đại Nam thực lục cũng ghi lại sự kiện này như sau:

Tỉnh Bình Định: thống trị 2 phủ, An Nhân, Hoài Nhân và 5 huyện Tuy Viễn, Tuy Phúc, Phù Cát, Phù Mỹ, Bồng Sơn. Nguyên huyện Tuy Viễn chia ra làm 2 huyện Tuy Viễn, Tuy Phúc; nguyên huyện Phù Ly chia làm 2 huyện Phù Cát, Phù Mỹ đặt riêng làm phủ An Nhân. Ba huyện Phù Cát, Phù Mỹ, Bồng Sơn vẫn để là phủ Hoài Nhân”. [6] 

Từ đó về sau, hành chính tỉnh Bình Định tiếp tục có nhiều thay đổi, sáp nhập, chia tách. Đến ngày 30 tháng 6 năm 1989, sau khi tái lập Bình Định từ tỉnh Nghĩa Bình, tên gọi tỉnh Bình Định được giữ ổn định cho đến ngày nay.

Chú thích

[1]. Quách Tấn. (1967). Nước non Bình Định. Sài Gòn: NXB Nam Cường. Tr. 11.

[2]
Dohamide và Dorohiem. (1965). Dân tộc Chàm lược sử. Sài Gòn: Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam. Tr. 15.

[3]. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Sử học phiên dịch. (2002). Đại Nam thực lụctập 1, Chính biên đệ nhất kỉ, quyển X [10], thực lục về Thế tổ Cao hoàng đế. NXB Giáo Dục. Tr. 388.

[4]. Phan Huy Ích từng viết Quy Nhơn thang mộc địa 歸仁湯沐地 - Quy Nhơn là ấp thang mộc). Thang mộc ấp là một điển cố xuất phát từ trong cổ văn. Từ này được dùng đầu tiên trong Công Dương truyện 公羊传, mục Ẩn Công bát niên 隐公八年, ban đầu nó có nghĩa là nơi các vua tắm gội để giữ mình thanh khiết trước khi cúng thiên tế địa. Về sau được dùng để chỉ cho vùng đất phát tích ra một triều đại, một vị vua nào đó.

[5]. Nội các triều Nguyễn, Viện Sử học dịch. (1993). Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, tập 4, quyển 36. NXB Thuận Hóa. Tr. 26.


[6]Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Sử học phiên dịch. (2002). Đại Nam thực lụctập 3, Chính biên đệ nhị kỷ, quyển LXXXV [85], Thực lục về Thánh tổ Nhân hoàng đế. NXB Giáo Dục. Tr. 393. 

 
Thư mục

• Nguyễn Đình Đầu. (2002). Địa chí Bình Định, tập Địa bạ và Phép quân điền. Quy Nhơn: UBND tỉnh Bình Định.

• Dohamide - Dorohiem. (1965). Dân tộc Chàm lược sử. Sài Gòn: Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam.

• Hoàng giáp Nguyễn Văn Hiển, người dịch Tô Nam Nguyễn Đình Diệm. (1970). Đồ Bàn thành ký. Tập san Sử Địa số 19, 20. Sài Gòn: Nhà sách Khai Trí bảo trợ.  

• Nội các triều Nguyễn, Viện Sử học dịch. (1993). Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, tập 4, quyển 36. NXB Thuận Hóa.

• Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Viện Sử học phiên dịch. (2002). Đại Nam thực lục. NXB Giáo Dục.

• Quách Tấn. (1967). Nước non Bình Định. Sài Gòn: NXB Nam Cường.

• Khổng Tử, dịch giả Hoàng Khôi. (2002). Xuân Thu tam truyện. NXB TP. Hồ Chí Minh. 


 
Nếu Quý vị thấy bài viết này hữu ích, hãy mời Quang Nguyễn một tách cà phê nhé! 

Bình luận (0)