Chăm Pa là nước nào?
Quang Nguyễn
Chăm Pa là tên một vương quốc ở miền trung Việt Nam từng tồn tại từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 19 với cương vực lãnh thổ kéo dài từ dãy Hoành Sơn (Quảng Bình) đến Bình Thuận và từ biển Đông cho đến giáp tỉnh Champasak phía tây nam nước Lào hiện nay.
Chăm Pa nghĩa là gì?
Tên gọi Chăm Pa bắt nguồn từ tiếng Sanskrit(1) चम्पापुर Campāpura - vốn là tên của một thành phố cổ gần Bhagalpur thuộc bang Bihar miền đông Ấn Độ hiện nay. Việc tên nước được đặt theo tên địa danh có sẵn ở Ấn Độ cho thấy vương quốc Chăm Pa nói riêng và nhiều nước ở Đông Nam Á thời bấy giờ nói chung, chịu ảnh hưởng sâu sắc nền văn hóa của Ấn Độ.
Về từ nguyên, चम्पापुर Campāpura trong tiếng Sanskrit nghĩa là "thành phố hoa sứ"; trong đó पुर pura có nghĩa "thành phố", "thị trấn", "kinh thành"; còn चम्पा Campā (tức Chăm Pa hoặc Champa) dùng để chỉ "hoa sứ đại" (còn gọi là sứ Ấn Độ, sứ Cùi, đại lá tù, hoa Chăm Pa, v.v.) có tên khoa học là Plumeria obtusa L.(2) thuộc họ trúc đào (apocynaceae).
Chăm Pa vốn là tên của hoa sứ đại, tên khoa học là Plumeria obtusa L. Ảnh: Pixabay
Ở Lào, hoa Chăm Pa (gọi là Dok Champa) còn được chọn là quốc hoa của quốc gia này.
Tên gọi Chăm Pa có từ lúc nào?
Quốc hiệu Chăm Pa bắt đầu từ lúc nào không rõ, chỉ biết rằng bi ký(2) sớm nhất có nhắc đến tên Chăm Pa khắc vào năm 658 (thế kỷ 7) là bi ký C96, được tìm thấy tại thánh địa Mỹ Sơn (Duy Xuyên, Quảng Nam).
Thật ra, nếu chiếu theo thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam thì Chăm Pa có 3 danh xưng, đó là Lâm Ấp, Hoàn Vương và Chiêm Thành(3), còn tên gọi Chăm Pa (Champa) chỉ mới xuất hiện vào đầu thế kỷ 20 trong các tập du ký và công trình nghiên cứu của các nhà du thám và các học giả phương Tây mà thôi. Điều này được PGS Lê Xuân Diệm trong bài viết Về tên gọi Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành và Cham-pa (Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về Việt Nam học lần thứ hai, 2004) cho rằng "đây là hiện tượng khác thường và hiếm thấy trong lịch sử các quốc gia cổ ở Đông Nam Á và trên thế giới" (tr. 46).
Trong ba danh xưng trên (Lâm Ấp - Hoàn Vương - Chiêm Thành) thì Chiêm Thành xuất hiện trong sử liệu Việt Nam và Trung Quốc từ năm 877 đời vua Hy Tông nhà Đường. Đây là danh xưng "có liên quan nhất" với tên gọi Chăm Pa. Theo đó, Chiêm Thành (chữ Hán: 占城) được dịch từ tiếng Sanskrit của chữ चम्पापुर Campāpura; trong đó, चम्पा Campā được phiên âm ra Hán ngữ là Chiêm bà, nói gọn là Chiêm (đọc theo Hán ngữ là Zhan), पुर pura được dịch nghĩa ra Hán văn là thành (đọc theo Hán ngữ là chéng).
Về lý do Hoàn Vương được đổi tên thành Chiêm Thành, Lê Xuân Diệm cho rằng: "Campapura, từ ngữ này đã từng được nhiều nhà vua thuộc vương triều Lâm Ấp và Hoàn Vương tự nhận là quốc danh truyền thống thiêng liêng của cộng đồng cư dân Lâm Ấp - Hoàn Vương. Việc triều đình nhà Đường xóa tên cũ Hoàn Vương, đặt tên mới là Chiêm Thành xem ra có vẻ như tôn trọng tâm nguyện cũng như quyền “tự chủ” của nước chư hầu. Thực ra, đó chỉ là chiêu thức mị dân dọn đường cho việc thực thi mưu đồ mới, kế sách mới sau khi sách lược chính trị “tọa sơn quan hổ đấu" bị phá sản trong giai đoạn nước Hoàn Vương" (Xem Sđd, tr. 52).
Kinh đô của Chăm Pa nằm ở đâu?
Chăm Pa không phải là một vương quốc có thể chế chính trị trung ương tập quyền mà là một tập hợp của nhiều địa khu theo trục thẳng đứng từ Bắc chí Nam. Trong quá trình lịch sử của Chăm Pa, có 5 địa khu sau đây:

Bản đồ 5 địa khu Chăm Pa. Ảnh: Po Dharma
1. Indrapura (875 - 982): địa bàn tương ứng với tỉnh Quảng Nam ngày nay. Đây là thời kỳ Chăm Pa bắt đầu có tên gọi là Chiêm Thành. Kinh đô của Indrapura là thành phố Indrapura, nay thuộc địa phận làng Đồng Dương, xã Bình Định, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Thành phố Sư tử Simhapura (hoặc Sinhapura) cũng từng là kinh đô của Indrapura, nay thuộc làng Trà Kiệu, xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
2. Amaravati (657 - 1471): địa bàn tương ứng với thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam ngày nay. Amāravatī vốn là tên của một thành phố miền nam Ấn Độ thời cổ đại (nay thuộc bang Andhra Pradesh của Ấn Độ); còn thư tịch, sử sách Trung Quốc thường gọi Amāravatī là Cựu Châu. Amāravatī từng có 3 kinh đô là Indrapura (nay thuộc tỉnh Quảng Nam), Simhapura (nay thuộc tỉnh Quảng Nam) và Kandapurpura (còn gọi là Phật Thệ/ Phật Thành, nay thuộc Thừa Thiên Huế).
3. Vijaya (988 - 1471): địa bàn tương ứng với tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên ngày nay. Kinh đô của Vijaya cũng là thành phố cùng tên Vijaya mà trong sách sử của người Việt gọi là Chà Bàn hoặc Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định.
4. Kauthara (757 - 1653): địa bàn tương ứng với tỉnh Khánh Hòa ngày nay. Kinh đô của Kauthara là thành phố Kauthara, nay thuộc địa phận thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
5. Panduranga (757 - 1832): địa bàn tương ứng với tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay. Kinh đô của Panduranga là Virapura (nghĩa là "thành phố Chiến Thắng") nay thuộc địa phận 2 huyện Ninh Phước và Thuận Nam của tỉnh Ninh Thuận.
Vương quốc Chăm Pa tồn tại bao lâu?
Hiện nay, khi tra cứu tài liệu về thời gian ra đời của Chăm Pa, hầu hết các cứ liệu đều cho rằng vương quốc Chăm Pa bắt đầu từ năm 192 với sự kiện thành lập nước Lâm Ấp - tiền thân của vương quốc Chăm Pa sau này.
Chẳng hạn như trong lời Tựa cho cuốn Dân tộc Chàm lược sử của hai tác giả Dohamide và Dorohiem (Sài Gòn, 1965), GS Nghiêm Thẩm (1920 - 1982) đã viết: "Người Chàm lập quốc từ năm 192, hồi đó nước Việt Nam còn đang bị người Trung Hoa đô hộ. Đó là nước Lâm Ấp. Đến thế kỷ thứ VIII, ta thấy sử Trung Hoa dùng danh từ Hoàn Vương để chỉ Vương Quốc của người Chàm. Và từ cuối thế kỷ thứ IX, ta thấy Vương Quốc Chàm được gọi là Chiêm Thành" (Sđd, tr. 5).
Luận cứ trên có thể bắt nguồn từ công trình nghiên cứu Le royaume de Champa (Vương quốc Champa) xuất bản năm 1928(5) của nhà Hán học người Pháp Georges Maspero (1872 - 1942). Cụ thể, G. Maspero đã dựa vào sách Thủy kinh chú 水经注 của Lịch Đạo Nguyên 酈道元 (466 hoặc 472 - 527) mà cho rằng nước Lâm Ấp được thành lập vào năm 192 niên hiệu Sơ Bình 初平 (190 - 193) đời vua Hán Hiến Đế.
Tuy nhiên, học giả Đào Duy Anh đã phản bác luận cứ trên của Thủy kinh chú (và tất nhiên là của cả G. Maspero). Ông cho rằng đối với vấn đề thành lập nước Lâm Ấp, các sách xưa chép không rõ, mà các nhà sử học Tây phương nghiên cứu về lịch sử Chiêm Thành cũng chỉ có những ý kiến mơ hồ. Đồng thời, ông khẳng định nước Lâm Ấp ra đời từ năm thứ hai niên hiệu Vĩnh Hòa (136 - 141) đời vua Hán Thuận Đế, tức năm 137 mới chính xác!
Chúng tôi xin trích lược dưới đây một số luận cứ, luận điểm của Đào Duy Anh trong Lịch sử cổ đại Việt Nam (NXB Văn Hóa Thông Tin, 2005) để bạn đọc rộng đường tham khảo:
- "Sách Hậu Hán thư chép rằng năm thứ 2 hiệu Vĩnh Hòa (137), mấy nghìn người Man Di ở huyện Tượng Lâm là bọn Khu Liên đánh huyện Tượng Lâm và giết trưởng lại. Thứ sử Giao Chỉ đánh không nổi, quân Hán bị vây lâu ngày, mãi năm sau, Chúc Lương được bổ Thái thú Cửu Chân mới chiêu dụ được quân khởi nghĩa" (Sđd, tr. 153).
- "Sách Hậu Hán thư chép rằng: "Nước ở ngoài cõi Nhật Nam lại trở lại cống hiến". Tuy đã ám chỉ rằng người Man Di ở ngoài cõi Nhật Nam nổi lên bấy giờ đã dựng thành nước, nhưng Hậu Hán thư chưa từng nói rõ rằng nước ấy là nước Lâm Ấp. Đến sách Tấn thư là sách sử tiếp sau Hậu Hán thư thì mới chép rõ rằng nước Lâm Ấp lập về thời Hán mạt, nhưng lại không chỉ rõ năm nào, chỉ nói rằng do con viên công tào huyện Tượng Lâm họ Khu tên là Liên đánh huyện và giết huyện lệnh, v.v..". (Sđd, tr. 153, 154).
- "Các sử sách sau như Nam Tề thư (q.58), Tùy thư (q.82) thì cũng chỉ chép rằng thời Hán mạt, có bọn Khu Liên ở Tượng Lâm làm loạn xưng vương mà dựng thành nước Lâm Ấp, chứ cũng không nói rõ về năm nào" (Sđd, tr. 154, 155).
- "Theo những điều các sử sách chép đó, chúng ta có thể nhận định một điều chắc chắn là: nước Lâm Ấp thành lập ở huyện Tượng Lâm vào thời Hán mạt do Khu Liên, người thổ dân, con viên công tào huyện Tượng Lâm, lãnh đạo dân chúng khỏi nghĩa mà lập thành. Sách Hậu Hán thư thì chép rằng việc ấy xảy ra ở năm thứ 2 hiệu Vĩnh Hòa (137). Nhưng sách Thủy kinh chú của người thời Ngụy lại chép rằng: "[Lâm Ấp] dựng nước vào khoảng Hán mạt. Trong cuộc loạn ở đời Sơ Bình (190- 193), lòng người hoài dị, viên công tào huyện Tượng Lâm họ Khu, có con tên là Liên đánh huyện, giết quan lệnh, tự lập làm vua. Nhân thời loạn ly, nước Lâm Ấp bèn lập" (Sđd, tr. 155).
- "Georges Maspero, tác giả sách Nước Chiêm Bà (tức sách Le royaume de Champa - Vương quốc Chăm Pa) thì cho rằng ở đời Vĩnh Hòa có rợ Khu Liên khởi nghĩa, nhưng không thành công, và bằng cứ vào đoạn sách Thủy kinh chú này ông cho rằng mãi đến đời Sơ Bình thì con viên công tào huyện Tượng Lâm cũng tên là Khu Liên khởi nghĩa xưng vương mới dựng nên nước Lâm Ấp" (Sđd, tr. 155).
- "G. Maspero không nhận thấy hai chữ Sơ Bình 初平 ở Thủy kinh chú là chép lầm nên vội vàng nhận đó là một việc khác với việc ở đời Vĩnh Hòa. Thực ra tác giả Thủy kinh chú cũng chỉ nói việc Khu Liên khởi nghĩa đã chép trong sách Hậu Hán thư, chứ không phải chỉ việc khác, duy nói đời Sơ Bình thì sai. Không rõ sự sai lầm đây là tự tác giả Thủy kinh chú hay là tự những người biên chép sách ấy ở đời sau. Chữ Vĩnh Hòa 永和 nếu viết hoặc in không rõ thì rất dễ lầm không ra chữ Sơ Bình 初平 cũng là niên hiệu một triều vua ở thời Hán mạt. Tác giả các sách chính sử đời sau không ai chép lại mấy chữ Sơ Bình ấy mà chỉ nói là thời Hán mạt thôi. Sách Cương mục của ta cũng chỉ chép việc loạn ở đời Vĩnh Hòa theo Hậu Hán thư chứ không chép việc ở đời Sơ Bình. Tác giả các sách Đại Việt địa dư toàn biên (Phương Đình) và Việt sử cương giảm lược khảo (Nguyễn Thông) là người Việt Nam thời Nguyễn thì nói rõ rằng nước Lâm Ấp thành lập vào năm Đinh Sửu, năm thứ 2 hiệu Vĩnh Hòa, tức năm Khu Liên khởi nghĩa. Chúng tôi tưởng (nghĩ) rằng đặt sự thành lập của nước Lâm Ấp vào năm thứ 2 hiệu Vĩnh Hòa như thế là chủ trương rất đúng đắn" (Sđd, tr. 155).
Như vậy, về sự ra đời của vương quốc Chăm Pa, có thể tạm thời ghi nhận hai cột mốc: hoặc là năm 192 hoặc là năm 137, mặc dù chúng tôi (Quang Nguyễn) cũng chưa chắc rằng dân nước Lâm Ấp đã có phải là dân của Chăm Pa - tức vương quốc mà sử liệu ghi là Chiêm Thành, hay không!?
Giai đoạn từ 1771 đến 1802, trong suốt cuộc chiến giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn Ánh, vương quốc Chăm Pa gần như không còn tồn tại khi:
- Biên giới hoàn toàn bị xóa bỏ trên bản đồ
- Mọi cơ cấu tổ chức chính trị và xã hội hoàn toàn bị sụp đổ
- Các tầng lớp lãnh đạo và nhân dân Chăm pa chia thành hai phe nhóm, nhóm theo nhà Tây Sơn và nhóm theo Nguyễn Ánh.
Năm 1802, sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã cho tái lập lại vương hiệu Chăm Pa nhưng đóng vai trò như là một lãnh thổ tự trị đặt dưới quyền bảo hộ của triều đình Việt Nam.
Đến năm 1832, vua Minh Mạng đã sáp nhập hoàn toàn vùng đất này vào lãnh thổ Đại Nam khi đó và người Chăm chính thức trở thành một thành phần dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam từ thời điểm này.
Như vậy, vương quốc Chăm Pa có thể tồn tại được ít nhất 1.640 năm, tính từ năm 192 đến năm 1832. Còn nếu theo luận điểm của Đào Duy Anh cho rằng nhà nước Lâm Ấp (tiền thân của nước Chăm Pa) thành lập từ năm 137 thì vương quốc Chăm Pa tồn tại được gần 1.700 năm.
Người Chăm hiện sống ở đâu nhiều nhất?
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 1,3 triệu người Chăm, trong đó tập trung đông nhất là ở Campuchia với trên 950.000 người, được gọi là Khmer Islam. Ở Việt Nam, có gần 180.000 người Chăm sinh sống, địa bàn cư trú của dân tộc Chăm chủ yếu phân bố ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Định, thành phố Hồ chí Minh ... với nhiều phong tục rất độc đáo cần được bảo tồn.
Chú thích
(1) Tiếng Sanskrit tức là tiếng Phạn hay Phạn ngữ. Đây là một cổ ngữ Ấn Độ, còn được gọi là bắc Phạn để phân biệt với tiếng Pali là Nam phạn.
(2) Một số tài liệu cho rằng tên gọi Chăm Pa bắt nguồn từ loài hoa có tên khoa học là Michelia champaca hoặc Champaca michelia hoặc Magnolia champaca (L.) Baill. ex Pierre, v.v.. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng giả thuyết này không chính xác vì loài hoa có cái tên khoa học Michelia champaca hoặc Magnolia champaca trong tiếng Sanskrit là চম্পা, trong khi tiếng Sanskrit trong tên gọi Chăm Pa là चम्पा. Ngoài ra, Michelia champaca hoặc Magnolia champaca là tên khoa học của hoa ngọc lan, trong khi biểu tượng của Chăm Pa là hoa sứ đại có tên khoa học là Plumeria obtusa L., tiếng Sanskrit chính là चम्पा.
(3) Nhiều tài liệu cũng ghi là bia ký. Đúng ra nên dùng từ bi minh (碑銘 - tấm bia khắc trên đó những lời răn) hoặc bi văn (碑文 - tấm bia khắc trên đó những bài thơ, bài văn, những truyền sử...). Các từ Bi (碑) và Ký (記), trong ngữ pháp chữ Hán, đều không tìm thấy có sự phối hợp tổ hợp từ bi ký nào để chỉ về bất cứ điều gì, lại càng không thể có bi ký với nghĩa là tấm bia đá có khắc chữ theo cách nói của chữ Hán được.
(4) Một số tài liệu ghi nhận có 5 quốc gia gồm Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành, Thuận Thành.
(5) Thực tế, cuốn Le royaume de Champa (Vương quốc Champa) là tập hợp lại các bài nghiên cứu về lịch sử Champa mà G. Maspero đã cho đăng tải liên tục trên tạp chí T’oung Pao trong những năm 1910 tới 1913. Công trình kinh điển này của G. Maspero rất nổi tiếng, được giới nghiên cứu Chăm Pa trên khắp thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng xem như là một standard interpretation (giải thuyết chuẩn mực) trong nghiên cứu lịch sử của vương quốc Champa.
Tài liệu tham khảo
1. Dohamide - Dorohiem, Dân tộc Chàm lược sử, Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam, Sài Gòn, 1965.
2. Phan Huy Lê - Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn - Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam (tập 1), NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983.
3. Lê Xuân Diệm, Về tên gọi Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành và Cham-Pa, Kỷ yếu hội thảo quốc tế về Việt Nam học lần thứ hai, 2004.
4. Đào Duy Anh, Lịch sử cổ đại Việt Nam - NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 2005
5. Sakaya, Văn hóa Chăm (Nghiên cứu và phê bình), tập 1, NXB Phụ Nữ, 2010.
6. Wisdom Libary, Champa, Champā: 3 definitions