“Nước Chân Lạp (真臘), ở phía tây nam Lâm Ấp, vốn là thuộc quốc của Phù Nam vậy. Từ quận Nhật Nam đi thuyền sáu mươi ngày thì tới”. [1]
"Cuộc tấn công bắt đầu khoảng cuối thế kỷ VI, đã hạ được kinh đô của Phù Nam ở Angkor Borei. Vua Phù Nam rút chạy về phía Nam, có lẽ là đến cảng thị Óc Eo - Ba Thê và còn trụ ở đây cho đến khoảng năm 640, năm mà con Mahendravarman là Isanavarman tiến đánh tiếp. Dòng vua núi Sailendraraja chạy sang Java, tiếp tục duy trì vương triều của mình ở đây.điểm tụ cư cũ của người Phù Nam." [15]
Vua Isanavarman của Bhavapura/ Chân Lạp không lui về đất cũ Sê Mun, cũng không lấy kinh đô cũ của Phù Nam ở Angkor Borei làm thủ đô mới, mà lui về Đông Biển Hồ Tonle Sap xây dựng kinh đô mới, gọi tên là Isanapura, nhưng trên kinh đô cũ của Phù Nam, ông cho xây dựng đền miếu thờ thần Hindu giáo, cúng tặng một số ruộng đất, vườn tược, nô lệ và kể rõ việc làm của mình trong một tấm bia khá dài, được coi là bia đầu tiên khắc chữ Khmer cổ, có niên điểm 611.
Năm này vừa được coi là mốc lớn mở đầu của văn hóa, ngôn ngữ, văn tự Khmer, vừa là mốc mở đầu của cuộc xâm chiếm và cai quản đất Phù Nam mà người Khmer tiến hành, năm bắt đầu của sự phổ biến văn hóa Khmer, đặc biệt là về mặt tôn giáo thờ Visnu và nghệ thuật tạc tượng Visnu phong cách Tiền Angkor. Đây cũng là mốc mở đầu cho cuộc di dân lần thứ nhất của người Khmer về phía Nam.
Giai đoạn này kéo dài chừng 1 thế kỷ (năm 611 - 713). Họ (tức người Khmer) xuống chưa nhiều, bởi chính họ cũng còn tình trạng "đất rộng người thưa", nhưng điều chủ yếu là do họ không có thói quen làm ruộng chằm, không có thói quen làm thuỷ lợi nhân tạo mà quen sống và canh tác trên đất giồng, nhờ vào nước tự nhiên (tưới và tiêu tự nhiên trên thềm cao bằng nước mưa và đắp bờ vùng). Họ cũng chưa từng biết biển và không hào hứng với biển. Nhưng họ cũng thích sự mới lạ và sự giàu có của quốc gia mới bị chiếm. Họ xuống một ít, chiếm lấy những thềm cao, đồi gò và chân núi, tranh những