Nam Văn Nữ Thị trong tên của người Việt | Atabook.com
Cập nhật lần cuối vào ngày 09/06/2023

Nam Văn Nữ Thị trong tên của người Việt

Quang Nguyễn
Quang Nguyễn



Trong thành phần tên người Việt Nam hiện nay, phần đông đều theo công thức: Tên Họ + Tên Đệm + Tên Chính(1).

Tên họ và tên chính thì không có gì phải bàn. Riêng về tên đệm(2), người Việt đã dùng từ bao giờ? Đây là câu hỏi không dễ trả lời vì không có sử liệu nào nói về vấn đề này.

Xét tên các nhân vật lịch sử ở thời kỳ dựng nước thì chúng ta thấy hầu hết chỉ có tên họ và tên chính, không có tên đệm(3). Chẳng hạn, các vua Hùng đều không có tên đệm, như Hùng Dương (Lộc Tục), Hùng Hiến, Hùng Lân, Hùng Việp. Thời Hai Bà Trưng, ta có Trưng Trắc, Trưng Nhị, Thi Sách, Lê Chân, v.v..

Theo nghiên cứu của một số nhà ngôn ngữ học, tên đệm của người Việt Nam chỉ phổ biến vào khoảng từ thế kỷ thứ 6 trở đi.


Tại sao đàn ông Việt thường có chữ lót là VĂN?


Trong tên đàn ông Việt Nam, từ ngữ nào cũng có thể là tên đệm, nhưng nhất định không bao giờ là chữ Thị. Trong khi đó, tiếng thông dụng nhất là Văn ()(4)

Có ít nhất ba quan điểm khác nhau giải thích về nguồn gốc của chữ lót Văn trong tên đàn ông ở Việt Nam, cụ thể như sau:

1. Xã hội cổ truyền Việt Nam thời xưa tồn tại bốn giai cấp gồm sĩ, nông, công, thương. là giai cấp cao nhất, được kính trọng hơn cả. Ðiều kiện cần thiết để bước vào giai cấp này là Văn, hiểu một cách rộng rãi là phải có văn chương chữ nghĩa, tức là có học vấn. Xưa kia chỉ có đàn ông con trai mới đi học và được đi thi(5). Vì vậy, mong ước cho con trai mình có văn chương chữ nghĩa để bước vào giai cấp cao nhất là sĩ được thể hiện rất rõ qua việc đặt tiếng Văn trong thành phần tên của con của các bậc cha mẹ xưa.

Việc học ngày xưa
Xã hội thời trước chỉ có đàn ông con trai mới đi học và được đi thi. Ảnh: Tư liệu

Việc học ngày xưa
Cho đến tận cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, việc học chữ của nữ vẫn rất hạn chế. Ảnh: Tư liệu
 
Đa phần người dân ở xã hội Việt Nam thời trước không được học hành nhiều nên không hiểu hết ý nghĩa của Văn, chỉ biết đại khái tiếng Văn chỉ đàn ông(6), còn tiếng Thị chỉ đàn bà.

Khi người Việt muốn nói tên kép của một người nào đó mà không biết tên đệm, chỉ biết tên chính, họ áp dụng ngay nguyên tắc đặt tiếng Văn vào trước tên chính, chẳng hạn như Văn Giang, Văn Sơn. Người nghe mặc nhiên hiểu đó là ông/ anh Giang, ông/ anh Sơn. 

2. Chữ lót Văn có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập là ben (= con trai) do các thương nhân Ả Rập vào buôn bán ở bờ biển Việt Nam. Đây là ý kiến đồng tình của PGS-TS Lê Trung Hoa sau khi trích dẫn cuốn Les langages  de lhumanité của Michel Malherbe và ông cho là đúng vì “về ngữ âm ben cho ra văn, binti cho ra thị là có thể chấp nhận" (Dẫn theo: Họ và tên người Việt Nam, NXB Khoa Học Xã Hội, 1992, tr.62).

3. Nhà nghiên cứu An Chi thì cho rằng chữ lót Văn chính là văn trong văn thân, nghĩa là "xăm mình". Ông dẫn chứng luận điểm của mình bằng một đoạn trong Lĩnh Nam Chích Quái như sau:

"Bấy giờ, dân trên núi xuống nước đánh bắt cá thường bị thuồng luồng gây thương tổn, bèn cùng nhau tâu việc ấy với Vua. Vua nói: “Các giống ở trên núi khác với các loài ở dưới nước. Các loài ở dưới nước chỉ ưa những gì giống với mình và ghét những gì khác mình, vì vậy, ta mới bị gây hại”. Thế rồi, nhà vua bèn ra lệnh cho ai nấy cũng phải lấy màu xăm hình thủy quái vào người. Từ đó, không bị thuồng luồng gây thương tích nữa. Tục vẽ mình của dân Bách Việt bắt đầu có từ đấy".


Theo ông An Chi, câu "vua bèn ra lệnh cho ai nấy cũng phải lấy màu xăm hình thủy quái vào ngườilà một câu có tính chất hồi chỉ và nó hồi chỉ “dân trên núi xuống nước đánh bắt cá”. Những người dân này chỉ là đàn ông vì cho đến tận thời nay, ra khơi đánh cá vẫn chỉ là đàn ông mà thôi. Và ông cho rằng xăm mình là một nét đặc trưng của đàn ông người Việt thời xưa và đặc trưng này đã được đưa vào tên họ của họ. Dần dần, ý nghĩa của tục lệ này phai mờ với thời gian nên về sau, chẳng cần có xăm mình gì cả thì con trai sơ sinh vẫn thường được cha mẹ dùng chữ Văn làm tiếng lót khi đặt tên. 
 
Lĩnh Nam chích quái
Tục vẽ mình của dân Bách Việt thời xưa

Theo chúng tôi (Quang Nguyễn), rõ ràng quan điểm của ông Lê Trung Hoa cho rằng Văn là do ben mà ra, xét về mặt ngữ âm thì không hợp lý lắm, nhất là ông đem gán Văn = ben có nguồn gốc từ các thương nhân Ả Rập lại càng mơ hồ! 

Có lẽ chính ông Lê Trung Hoa cũng cảm thấy cách lý giải trên không hợp lý nên trong cuốn Họ và tên người Việt Nam tái bản lần 3 năm 2005, ông đã bỏ phần này ra chăng?

Còn về quan điểm của ông An Chi, dù nghe khá hợp lý nhưng
 chúng tôi vẫn chưa được thuyết phục ở vài điểm như sau:

(i) Nếu cho rằng từ Văn trong tên đệm của đàn ông bắt nguồn từ tục xăm mình của người Việt cổ [tức là văn thân - Quang Nguyễn], vậy tại sao ở thời kỳ dựng nước như đã nói ở phần đầu, hầu hết các nhân vật lịch sử (nam) đều không có chữ lót này mà phải đến thế kỷ 6 tên đệm Văn mới bắt đầu phổ biến?

(ii) Việc lấy câu hồi chỉ của vua để cho rằng ra khơi đánh cá chỉ dành cho đàn ông là hơi khiên cưỡng, mang tính áp đặt. Vì nếu chúng tôi cũng "áp đặt" câu chữ trong Lĩnh Nam Chích Quái (sđd) vẫn có thể cho rằng những câu cuối của đoạn trích mà ông An Chi đã dẫn ở trên là lời khẳng định tục xăm mình của dân Bách Việt áp dụng cho cả đàn ông lẫn đàn bà cũng không sai: "Thế rồi, nhà vua bèn ra lệnh cho ai nấy cũng phải lấy màu xăm hình thủy quái vào người. (....) Tục vẽ mình của dân Bách Việt bắt đầu có từ đấy". Rõ ràng hai câu trên dùng từ chỉ chung chứ không phân biệt chỉ có đàn ông mới xăm / vẽ mình.

Vả lại, tục xăm mình cũng có thể được xem là hình thức làm đẹp của người Việt cổ, tại sao chỉ có đàn ông được làm đẹp bằng hình thức này?


Ngoài ra, trong cuốn An Nam Chí Lược - bộ sử xưa nhất do một cá nhân người Việt soạn ra, khi viết về phong tục của người Việt, Lê Tắc cũng dùng từ rất chung khi mô tả rằng "dân [tức dân Bách Việt - Quang Nguyễn] hay vẽ mình, bắt chước tục lệ của hai nước Ngô, Việt. Vì thế, Liễu Tư Hậu(7) có thơ rằng: cộng lai Bách Việt văn thân địa(8), nghĩa là cùng đi tới Bách Việt là xứ người vẽ mình. Vì trời nóng sốt, dân ưa tắm ở sông nên họ chèo đò và lội nước rất giỏi". Có thể thấy, để thành xứ nổi tiếng về "văn thân" (tức xăm / vẽ mình) đến cả một vị quan vừa bị biếm chức khỏi kinh thành Tràng An (Trung Quốc) như Liễu Tông Nguyên (vốn sinh ra ở tận Sơn Tây - Trung Quốc) cũng biết tiếng, rõ ràng dân Bách Việt không chỉ có đàn ông xăm / vẽ mình mà thôi. 

Chúng tôi cho rằng chữ Văn trong Tên Đệm của đàn ông Việt Nam chính là sử dụng chữ 文 (bính âm: n) trong tiếng Hán.

Nghĩa gốc của Văn 文 là “hoa văn”, gắn liền với văn thân 文身 (= xăm/ vẽ mình), mô tả một người trước ngực hoặc sau lưng có xăm những hoa văn(9).
 
Chữ Văn 

Tuy nhiên, ý nghĩa ban đầu như vậy (tức “hoa văn”) của  sau đó đã được thay thế bằng 紋 (bính âm: n); còn 文 thì được sử dụng thành nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa “văn chương chữ nghĩa”, chỉ người có học vấn, tức gần như mặc nhiên chỉ người đàn ông ở xã hội cổ truyền Việt Nam - một xã hội trọng nam khinh nữ với câu tục ngữ phổ biến "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô".

Điều này dễ dàng nhận ra trong những định nghĩa về chữ Văn trong các từ điển uy tín của Việt Nam. Chẳng hạn, Hán Việt Từ Điển giản yếu (NXB Văn Hóa Thông Tin, 2005) của Đào Duy Anh giảng Văn là “người có học vấn, trái với vũ (Sđd, tr.898); còn Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng, 2003) ghi rõ Văn là “việc của người trí thức thời phong kiến" (Sđd, tr.1100).
 

Tại sao phụ nữ Việt thường có chữ lót là Thị?


Từ điển tiếng Việt  (Sđd, tr.938) giảng Thị gồm các nghĩa sau:

1. Tiếng lót giữa họ và tên nữ để phân biệt với tên nam. Đoàn Thị Điểm

2. Từ dùng đặt trước một tên riêng để chỉ hoặc gọi người phụ nữ ở tầng lớp dưới của xã hội cũ. Thị Mầu. Đóng vai Thị Hến.

3. Từ dùng để chỉ người phụ nữ ở ngôi thứ ba với ý coi khinh. Thị bị bắt khi mang hàng lậu.

Về từ nguyên, Thị là một từ Việt gốc Hán của từ ghi bằng 氏 được Hán Việt tự điển (NXB Văn Hóa Thông Tin, 2009) của Thiều Chửu giảng: “đàn bà tự xưng mình cũng gọi là thị” (Sđd, tr.396); còn Đào Duy Anh trong Hán Việt từ điển giản yếu giảng: “đàn bà thường gọi là thị" (Sđd, quyển Hạ, tr.792).


Dân gian có hai khuynh hướng đối với tiếng Thị: Khuynh hướng chữ Hán và khuynh hướng chữ Nôm như sau:

1. Khuynh hướng chữ Hán tức theo tinh thần Trung Quốc, chữ Thị đi với tên họ

Cuốn Hiện đại Hán ngữ từ điển (Bắc Kinh, 1992) chỉ ra như sau: “Đặt sau họ của người phụ nữ đã có chồng, thường thêm họ chồng vào trước họ cha để xưng hô” (Phóng tại dĩ hôn phụ nữ đích tính hậu, thông thường tại phụ tính tiền gia phu tính, tác vi xưng hô). Thí dụ: Triệu Vương thị là người đàn bà mà họ cha là Vương còn họ chồng là Triệu.

Trong quá trình tiếp biến ngôn ngữ, người Việt xưa kia đã không làm y hệt theo cách trên đây của người Trung Hoa mà chỉ đặt THỊ sau họ cha. Ví dụ Cù Thị, người đàn bà lịch sử thời Lữ Gia, không phải tên chính là Thị mà chỉ có nghĩa là người đàn bà họ Cù. Trong các cổ thư như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tên đàn bà được ghi là Trần Thị, Đặng Thị. Ngoài dân gian, trên các bia mộ, người ta thấy: Trần Thị Chi Mộ nghĩa là mộ phần người đàn bà họ Trần. Đồng Đăng (tỉnh Lạng Sơn) có nàng Tô thị, nghĩa là cô gái con ông họ Tô.


nàng Tô Thị
Tượng nàng Tô Thị ở Đồng Đăng (Lạng Sơn). Ảnh: Internet
 
2. Khuynh hướng chữ Nôm, tức theo tinh thần Việt Nam, chữ THỊ đi với tên chính.

Trong khuynh hướng này, nhân vật Thị Mầu, Thị Kính trong truyện Quan Âm Thị Kính là những bằng chứng cụ thể. Ngoài ra, dân gian thường nói Thị Mẹt để chỉ người đàn bà nói chung.

Đến lúc nào đó, cả hai khuynh hướng trên đều chuyển sang họ cha, đến thị rồi liền theo đó là tên riêng của đương sự theo kiểu cấu trúc “Y thị A”, hiểu là người đàn bà họ Ytên A. Chẳng hạn, Đoàn thị Điểm tức là cô Điểm con ông họ Đoàn.

Cấu trúc này giống như cấu trúc có yếu tố Công (= Ông) mà dân Nam bộ đã dùng để gọi nhà yêu nước Trương Định một cách tôn kính: Trương Công Định, có nghĩa là Ông (được tôn kính) họ Trương tên Định. Vậy cứ như đã phân tích, Nguyễn thị A là người đàn bà họ Nguyễn tên A, Trần thị B là người đàn bà họ Trần tên B, v.v..

Cách hiểu ban đầu về tiếng Thị này đã phai mờ dần theo thời gian khiến về sau,người ta tưởng rằng Thị chỉ là yếu tố có tính chất “trang trí” cho tên của phái nữ mà thôi.

Chính vì không còn hiểu được công dụng ban đầu của Thị nữa nên người ta mới dùng nó làm tên đệm cho các bé gái khi chúng vừa mới lọt lòng mẹ. Người ta đã làm như thế mà không ngờ rằng xưa kia, các cụ bà của chúng chỉ được dùng tiếng Thị để chỉ định sau khi họ đã trưởng thành, và rằng Thị chỉ được dùng chủ yếu là trong lời nói, đặc biệt là trong ngôn ngữ hành chính, chứ không phải là cho việc đặt tên.

Việt Nam là nước chịu ảnh hưởng “họ” của người Trung Quốc. Nhưng người Trung Quốc trước đây và hiện nay lại không dùng từ đệm Văn Thị phổ biến như người Việt Nam. 


Chú thích

(1) Người Trung Quốc, Hàn Quốc, ... cũng theo công thức trên; trong khi ngược lại thứ tự trên, hầu hết tên người phương Tây có công thức: Tên Chính + Tên Đệm + Tên Họ

(2) Còn gọi là tiếng lót, hoặc tên đệm

(3) Theo các nhà sử học hiện đại, cho đến thời đầu công nguyên (tức thời Hai Bà Trưng), người Việt (chưa tính tới người dân tộc thiểu số) vẫn chưa có họ. Họ người Kinh và người Việt gốc Hoa được Hán hóa mạnh kể từ đầu công nguyên trong thời kỳ Bắc thuộc lần 2 trở đi.

(4) Trong khi Văn là tiếng độc quyền của đàn ông Việt Nam thì tại Trung Quốc, Văn cũng được dùng trong tên đàn bà. Nàng Trác Văn Quân, vì nghe nhạc khúc Phụng Cầu Hoàng mà trở thành người tình của Tư Mã Tương Như, là ví dụ điển hình.

(5) Trong lịch sử Việt Nam, ngoại trừ những phụ nữ có quyền hành do là nữ vương (như Hai Bà Trưng, Bà Triệu), vợ vua (hoàng hậu) hoặc mẹ vua (hoàng thái hậu) như nguyên phi Ỷ Lan thời Lý, Trần Thị Dung thời Trần, Nguyễn Thị Anh thời Lê, Từ Dụ thời Nguyễn, ...còn lại nữ sĩ (biết văn chương chữ nghĩa) trong dân gian là khá hiếm. Phải đến thế kỷ 18-19 mới xuất hiện tên thi đàn các nữ sĩ nổi tiếng như Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương. Cả 3 nữ sĩ đều có xuất thân trâm anh thế phiệt nên được dạy học từ nhỏ như nam nhân.  

(6) Bằng chứng là trong danh sách 401 binh sĩ được thờ tại đền Tinh Trung ở phủ Diên Khánh thời Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn, có tất thảy 384 người có tên đệm Văn, 17 người không đệm chữ Văn. Có thể thấy tỷ lệ đàn ông thời xưa đệm chữ văn rất lớn, hơn 90%.

(7) Cuốn An Nam Chí Lược do Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam dịch năm 1960 và được xuất bản bởi Viện Đại Học Huế năm 1961, ghi là Liễu Tư Hậu nhưng chúng tôi [Quang Nguyễn] đồ rằng chính xác phải là Liễu Tử Hậu, tức Liễu Tông Nguyên.

(8) Nguyên văn tiếng Hán của câu này là 越文身地, nằm trong bài "Đăng Liễu Châu Thành Lâu, ký Chương, Đinh, Phong, Liên tứ châu thứ sử" - 登柳州城棲寄漳汀封連四州剌史 (Lên lầu thành Liễu Châu, viết gửi bốn thứ sử các châu Chương, Đinh, Phong, Liên). Bài thơ này được Liễu Tông Nguyên sáng tác khi ông bị biếm khỏi kinh thành lần thứ hai, dưới triều Đường Hiến Tông. Bốn vị thứ sử được nhắc tới là Hàn Thái, Hàn Tất, Trần Khiêm, và Lưu Vũ Tích. Tứ châu theo thứ tự của mỗi người là Chương châu, Đinh châu, Phong châu và Liên châu. Liễu bị biếm đi Liễu châu, nơi ông làm bài thơ này. Tất cả những châu này đều nằm ngoài dãy Ngũ Lĩnh, nên được coi là phạm vi của Bách Việt.

(9) Lý Lạc Nghị - Jim Waters, Tìm về cội nguồn chữ Hán, NXB Thế Giới, Hà Nội, 1997, tr.850



Tài liệu tham khảo

1. An Chi, Chuyện Đông chuyện Tây, NXB Trẻ, 2006

2. Lê Trung Hoa, Họ và tên người Việt Nam , NXB Khoa Học Xã Hội, tái bản 2005

3. 
Hoàng Phê (Chủ biên), Từ điển tiếng Việt , Viện Ngôn Ngữ Học, NXB Đà Nẵng, tái bản 2003

4. Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển giản yếu, NXB Văn Hóa Thông Tin, tái bản 2005

5. Vũ Quỳnh, Kiều Phú - Lĩnh Nam chích quái, ebook

6.  Đại Việt Sử Ký toàn thư - Dịch giả: Cao Huy Giu, Đào Duy Anh, NXB Văn Học, 2009

7. 
Lý Lạc Nghị - Jim Waters, Tìm về cội nguồn chữ Hán, NXB Thế Giới, Hà Nội, 1997

8. Thiều Chửu, Hán Việt tự điểnNXB Văn Hóa Thông Tin, 2009

9. Lê Tắc, An Nam chí lượcỦy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam, Viện Đại học Huế, 1960


Sách hay về phong tục Việt Nam


• Đất lề quê thói - Phong tục Việt Nam được giới nghiên cứu lâu nay xem như một cuốn “từ điển thu nhỏ” về phong tục Việt Nam.

• Việt Nam phong tục  là một bộ biên khảo tương đối đầy đủ về các phong tục tập quán cũ của nước Việt của Phan Kế Bính.

• Phong tục đất phương Nam đề cập nhiều đến phong tục tập quán ở miền Trung và miền Nam, những nơi in dấu chân ông thay vì chủ yếu viết về phong tục tập quán ở miền Bắc như các tác giả khác. 

• 
Lễ tục trong gia đình người Việt xưa và nay  sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm cách lý giải thế giới, những suy nghĩ, khát vọng vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn của người xưa, để bảo tồn và áp dụng chúng cho hợp với thời nay khi nhiều tập tục không còn phù hợp với hoàn cảnh mới, đồng thời cũng loại bỏ những hủ tục, những điều mê tín dị đoan, không khoa học.
Bình luận (0)