Trai tứ chiếng, gái giang hồ là gì | Atabook.com
Cập nhật lần cuối vào ngày 30/10/2023

Trai tứ chiếng, gái giang hồ là gì?

Quang Nguyễn
Quang Nguyễn

Trai tứ chiếng có nghĩa gốc là những người tài giỏi từ bốn kinh trấn xung quanh kinh đô Thăng Long, sau này được hiểu theo nghĩa rộng hơn là trai đã từng trải qua bốn phương trời hoặc trai từ bốn phương tụ hội.


Hiện nay, không ít người nghĩ rằng câu thành ngữ trai tứ chiếng, gái giang hồ hẳn cũng có ý mỉa mai, khinh khi kiểu như “mèo mả, gà đồng” hoặc “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”? Nếu vậy thì đó thật là một sai lầm tai hại!

Thật ra, tứ chiếng là cách đọc chệch tứ chính mà ra. Tứ chính là tên gọi tắt của tứ chính trấn và nó còn được gọi khác là kinh trấn.

Từ xưa, nhân dân ta đã nhận thức được tầm quan trọng về mặt văn hoá của vùng đồng bằng miền Bắc. Kinh đô Thăng Long, đầu não của nước Đại Việt, nằm ở trung tâm đồng bằng miền Bắc. Xung quanh kinh đô Thăng Long có bốn vùng nên được gọi là bốn kinh trấn hay tứ chính trấn.

Đây chính là lý do giải thích cho sự ra đời của kinh trấn hay tứ chính trấn.

Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú đã có những nhận xét về đặc thù của tứ chiếng. Tứ chiếng đó là:

• Chiếng Sơn Nam

• Chiếng Kinh Bắc

• Chiếng Sơn Tây

• Chiếng Hải Dương

 
Tứ chính trấn
Bản đồ tứ chính trấn của Thăng Long trước kia (Thăng Long tứ trấn). Ảnh: Wikimedia.org

Dân tứ chính (hay tứ chiếng) được coi là có trình độ phát triển cao hơn dân ở các nơi khác. Và khẩu ngữ trai tứ chiếng xưa kia có nghĩa gốc là những người tài giỏi từ bốn kinh trấn xung quanh kinh đô Thăng Long, sau này được hiểu theo nghĩa rộng hơn là trai đã từng trải qua bốn phương trời hoặc trai từ bốn phương tụ hội.

Do đó, dân tứ chiếng hoàn toàn không phải là những người “đầu trộm đuôi cướp” như cách hiểu của một số người hiện nay. 

Trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức cũng giảng hai tiếng tứ chính nghĩa là tứ xứ, bốn phương và cho ví dụ bằng câu ca dao sau:

Trai tứ chiếng, gái giang hồ
Gặp nhau làm nổi cơ đồ cũng nên.



Gái giang hồ là gì?
Gái giang hồ dùng để chỉ những cô gái ăn sương, buôn hương bán phấn, làm đĩ.

Chữ giang hồ có gốc Hán Việt  江湖 được Đào Duy Anh giảng trong Hán Việt từ điển giản yếu như sau: "Tam-giang và Ngũ-hồ [1] là chỗ ẩn dật - Không có chỗ định trú - Hư phù không tin được"

Như vậy, từ giang hồ trước kia dùng để chỉ cuộc sống phóng túng rày đây mai đó, không ở yên một chỗ.

Tuy nhiên, với phong kiến Á Đông xưa kia thì giang hồ với nghĩa trên chỉ được chấp nhận nơi nam nhi, chứ không chấp nhận nơi nữ lưu. Đối với người nam thì "giang hồ quen thói vẫy vùng", nhưng đối với nữ nhi khuê các, thì "tiếc thay lưu lạc giang hồ".

Đào Duy Anh đã lấy 2 câu Kiều sau đây để giảng giải trong Từ điển truyện Kiều từ "giang hồ" là để chỉ người con gái làm đĩ.

Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
Một màu quan tái bốn mùa gió trăng


Hiện nay, phần lớn từ giang hồ được hiểu theo nghĩa phái sinh theo hướng xấu, đồng nghĩa với du đãng, đâm thuê chém mướn. Chẳng hạn ai ở Sài Gòn chắc biết câu "giang hồ quận 4", để chỉ dân du đãng quận 4 (nơi có bến cảng trước năm 1975 nổi tiếng anh chị), hoặc "dân giang hồ", để chỉ dân dao búa, đâm thuê chém mướn, hoặc gái giang hồ dùng để chỉ những cô gái buôn hương bán phấn.

Gái giang hồ tiếng Anh dịch là courtesan


Chú thích

[1]Tam giang và Ngũ hồ chỉ là cách nói ước lệ tương tự câu bốn biển là nhà.


Sách hay về Thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam

Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam - Vũ Ngọc PhanTục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (Vũ Ngọc Phan)
NXB Văn Học, 2020
Mua sách

Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt NamTừ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (Nguyễn Lân)
NXB Văn Học, 2014
Mua sách

Từ điển thành ngữ tiếng ViệtTừ điển thành ngữ tiếng Việt
NXB Dân Trí, 2019
Mua sách  
Bình luận (0)