An Nam là gì? An Nam là ở đâu? Tại sao gọi là Annamite (an nam mít) | Atabook.com
Cập nhật lần cuối vào ngày 14/02/2023

An Nam là gì? An Nam là ở đâu? Tại sao gọi là Annamite (An nam mít)?

Quang Nguyễn
Quang Nguyễn

An Nam là một trong những tên gọi trước đây của Việt Nam (từ 679 - 1945) mang hàm ý trấn áp, giữ yên phương Nam; biểu thị cái nhìn trịch thượng và miệt thị của kẻ xâm lược, đô hộ. 


Lính An Nam thời Pháp thuộc
Lính An Nam thời Pháp thuộc. Ảnh: Planetfigure
 

Tên gọi An Nam có từ khi nào?

 
Tên gọi An Nam đã xuất hiện trong bộ sử xưa nhất còn lưu lại đến ngày nay do một cá nhân người Việt soạn vào khoảng đầu thế kỷ 14 có nhan đề là An Nam chí lược của Lê Tắc (1263 - 1342). Thật ra thì tên gọi An Nam đã xuất hiện trước đó rất lâu, ít nhất là từ thời Bà Triệu Thị Trinh (226 - 248). 

Nguyên là vào năm 248, cả hai quận của Giao Châu là Cửu Chân và Giao Chỉ đều nổi dậy chống lại sự đô hộ của nhà Ngô. Thanh thế của các cuộc khởi nghĩa lớn mạnh đến nỗi ngay cả các nhà sử học của Ngô phải thừa nhận là “toàn thể Châu Giao [tức Giao Châu] chấn động” (theo Ngô chí, quyển 8). Trong số đó, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Bà Triệu có thanh thế vang dội hơn cả.

Theo Lịch sử Việt Nam (tập 1, NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1983), đứng trước nguy cơ tan rã của chính quyền đô hộ ở Châu Giao, Tôn Quyền - quân chủ của nhà Ngô, phải cử viên danh tướng Lục Dận(1) làm thứ sử Giao Châu với chức An Nam hiệu úy đem khoảng 8.000 quân sang Giao Châu đàn áp nhân dân khởi nghĩa.

Như vậy là cái tên An Nam manh nha xuất hiện trong sử sách chính là năm 248.

Đến năm 679, nhà Đường cho đổi Giao Châu tổng quản phủ (lập năm 622) thành An Nam đô hộ phủ(2), gồm 13 châu với 59 huyện [tương ứng một phần Choang Quảng Tây, Miền Bắc và miền Trung Việt Nam từ Hà Tĩnh hiện nay trở ra - Quang Nguyễn].

Như vậy, tên gọi An Nam chính thức có từ năm 679. Từ lúc này trở về sau, hai chữ An Nam dùng để chỉ chủ yếu là vùng nước ta. Trung Quốc hay gọi ta là An Nam và phong cho vua nước ta là An Nam Quốc Vương.

 

An Nam có nghĩa là gì?


Trong chữ An Nam thì chữ An 安 phía trên là bộ Miên 宀 nghĩa là "mái nhà", phía dưới là bộ Nữ 女 nghĩa là "con gái". Ý nghĩa chiết tự của chữ An là "con gái sống dưới mái nhà thì mới là an". Chính từ An 安 này mới có những từ ghép như An dân 安民 nghĩa là "vỗ về nhân dân", "làm cho dân yên".

Như vậy, cái tên An Nam ban đầu có nghĩa là "bình định, trấn áp, dẹp yên phương Nam" với cái chức An Nam hiệu úy của Lục Dận vào năm 248 (thế kỷ 3), đến năm 679 (thế kỷ 7) khi nhà Đường đã đô hộ nước ta và đặt tên An Nam đô hộ phủ thì cái tên An Nam lúc này thể hiện mong muốn của kẻ đô hộ rằng "vùng đất phương Nam (mà chúng đang chiếm đóng) sẽ yên ổn, không nổi dậy giành độc lập".   

 

Tại sao gọi là Annamite (An nam mít)?


Thời Pháp thuộc, có lẽ do ảnh hưởng của Trung Quốc, người Pháp mặc nhiên gọi nước ta là An Nam và gọi dân ta là Annamite, mặc dù nước ta từ đời Đường, trải qua nhiều thế kỷ chống lại “sự trấn áp phương Nam” đã đổi tên nước nhiều lần và ngay cả thời điểm đó, nước ta có tên là Đại Nam.

Từ Annamite với biến thể Việt hóa là Annam mít (hoặc An nam mít) mang hàm ý miệt thị của thực dân Pháp và của cả những người Việt được "khai sáng văn minh" bởi "mẫu quốc Pháp" với những người Việt "chưa được khai sáng". Nhiều người Việt dùng từ này với đồng bào mình có lẽ tự coi mình, về mặt văn hóa, gần gũi với những kẻ thống trị hơn với các đồng bào bị trị của mình.

Trong 
bài viết có nhan đề An-Nam-Mít trên Tràng An báo số 439 (ra ngày 28 tháng 7 năm 1939), tác giả có bút danh là Cóc Bịch đã viết rất cụ thể về chữ Mít trong An-nam-mít. Chúng tôi xin trích dẫn nguyên văn để bạn đọc rộng đường tham khảo:
 
“An-nam, An-nam, nguyên An-nam chúng ta có chữ “mít” ấy đâu. Từ khi người Pháp qua đây mà sau chữ “An-nam” mới thêm vào một chữ “mít” nữa. Cái chữ “mít” thêm vào đó, nói cho phải, không phải người Pháp cố ý chế nhạo người Annam ta đâu. Chẳng qua người ta theo “âm loại” (famille des mots) mà đặt ra. Annamite cũng như Fançais(3) hay Chinois đó thôi.

Khốn thay ! cái tiếng “mít” lại là một tiếng bất lợi trong thứ tiếng An nam. Người nào dốt nát thì bị cười là “dốt như hột mít”, người nào u mê,, thì bị chê là “hột mít chẳng biết gì”. Thành ra tiếng "mít" ấy để tặng riêng cho hạng người vô tri vô giác.

Thế mà hay! người Pháp họ qua đây lâu ngày, tuồng như họ cũng hiểu “mít” là một tiếng hủ lậu quê mùa của dân bổn xứ. Nên chỉ nói đến ba tiếng “An-nam-mít” thì họ tỏ ra bộ khinh bỉ, khó chịu lắm thay, thấy cái gì trái mắt, thì họ lên tay: Eh, Annamite! nghe chuyện gì trái tai, thì họ vụt miệng: Oh! Annamite! Rồi bất cứ trăm xấu nghìn xa gì gì, đều đổ trên đầu An-Nam-mít cả.

Cũng vì một chữ “mít” ấy mà người ta không có tiền đi xe tới nhà thương, mà tờ báo Tây ở Hải-phòng lại nói rằng: “người An-nam không biết đau khổ”?

Cũng vì một chữ mít ấy, mà cầu Tràng Tiền lâu ngày thì sắt bị rét(4), mà một tờ báo Tây ở Huế lại nói rằng: “người An-nam đái mục cầu đi”.

Cũng vì một chữ mít ấy, mà tàu Phénix chìm là tự đâu đâu, mà một tờ báo Tây ở Saigon lại nói rằng: có khi vì sáu người Annam đi theo nấu bếp, bất cẩn sự gì đó nên tàu mới bị nạn”. 

Té ra, chuyện gì hư hèn, là đổ cho An-nam-mít cả. "Mít!", Mít!" tự người Pháp nghe thì nó ăn nhịp với hai tiếng "Annam" lắm. Nhưng như trên đã nói, nguyên Annam chúng tôi trước kia có dính gì với "mít" đâu. "Mít" làm sao mà đánh đổ quân Nguyên 60 vạn ở sông Bạch-đằng? Mít làm sao mà dẹp tan quân Thanh 20 vạn ở sông Nhị-hà? Mít làm sao đuổi được Chiêm-thành, lùa được Chân lạp, thần phục được Ai lao? Thật vậy từ người Pháp qua đây, Annam chúng tôi mới thành ra "mít" đó".

Cũng trong bài viết, khi đặt vấn đề bao giờ Annam mới khỏi "mít", tác giả Cóc Bịch đã tóm lược về lịch sử tên gọi Annam, trong đó có nhắc lại sự kiện vua Thanh đã chiều ý vua Gia Long mà đổi quốc hiệu An-nam thành Việt-nam, và tác giả khẳng định: "Hai chữ Annam còn đổi được thay, huống là chữ "mít"? Một ngày kia Annam mà không "mít" nữa: thì tiếng mít ấy nó tự nhiên mất đi" (Xem báo đã dẫn, tr. 2).

Chúng tôi xin nhắc lại, bài báo trên của tác giả Cóc Bịch được đăng trên Tràng An báo số 439 ra ngày 28 tháng 7 năm 1939, tức là đang trong thời kỳ Pháp thuộc và người Pháp vẫn đang đô hộ nước ta!  


Chú thích

(1) Lục Dận (陸胤) chính là cháu của Đại đô đốc Lục Tốn (陸遜) - một tướng lĩnh quân sự nổi tiếng của Đông Ngô thời Tam quốc.

(2) Cái tên An Nam đô hộ phủ tồn tại đến năm 757 thì bị đổi thành Trấn Nam đô hộ phủ. 9 năm sau đó lại trở về tên cũ. Tới năm 866, An Nam đô hộ phủ được phong Tĩnh Hải Quân, ngang hàng với các vùng đất trong nội địa nhà Đường. An Nam đô hộ phủ cũng là đô hộ phủ tồn tại lâu nhất trong 6 đô hộ phủ do nhà Đường lập ra (6 đô hộ phủ gồm Bắc Đình đô hộ phủ - giữ Tân Cương, Thiền Vu đô hộ phủ - giữ Nội Mông Cổ, An Tây đô hộ phủ - giữ Tây Vực , An Bắc đô hộ phủ - giữ Ngoại Mông Cổ , An Đông đô hộ phủ - giữ Cao Câu Ly (tức bán đảo Triều Tiên ngày nay) và An Nam đô hộ phủ - giữ Giao Chỉ).

(3) Tức francais. Có lẽ báo khi ấn loát bị sai chữ. Chúng tôi giữ nguyên văn bài viết.

(4) Tức sét. Chúng tôi giữ nguyên văn bài viết.


Tài liệu tham khảo

1. Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh - Lịch sử Việt Nam tập 1 - NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội 1983

2. Jules Silvestre, Đế quốc An Nam và người dân An Nam, NXB Đà Nẵng, 2020 .

3. Cóc Bịch, An-Nam-Mít, Tràng An báo số 439 ra ngày 28 tháng 7 năm 1939. 

Bình luận (0)